Bình Ngô đại Cáo 10

Tác phẩm “Đại cáo bình Ngô” – Vang lên tiếng trọn vẹn với kiến thức trọng tâm của văn bản

Bình Ngô đại cáo

Bài giảng: Đại cáo bình Ngô – Phần 1: Tác giả – Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên VietJack)

A. Nội dung tác phẩm

  1. Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương;
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cứ còn ghi.

  1. Vừa rồi:
    Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
    Để trong nước lòng dân oán hận.
    Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ.
    Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những nổi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?

  1. Ta đây:
    Núi Lam sơn dấy nghĩa,
    Chốn hoang dã nương mình.
    Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
    Căm giặc nước thề không cùng sống.
    Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
    Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
    Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
    Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
    Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
    Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
    Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
    Chính lúc quân thù đương mạnh.
    Lại ngặt vì:
    Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
    Nhân tài như lá mùa thu.
    Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
    Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.
    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả.
    Thế mà:
    Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,
    Tự ta ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
    Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
    Phần thì lo vận nước khó khăn.
    Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
    Khi Khôi Huyện quân không một đội.
    Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
    Ta gắng chí khắc phục gian nan.
    Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
    Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
    Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
    Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
    Trọn hay:
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo.
    Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
    Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
    Sĩ khí đã hăng,
    Quân thanh càng mạnh.
    Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
    Lí An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
    Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;
    Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
    Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;
    Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
    Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;
    Mọt gian kẻ thù, Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.
    Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;
    Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.
    Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt;
    Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
    Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.
    Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;
    Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
    Bởi thế:
    Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng;
    Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.
    Đinh Mùi tháng chín Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;
    Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
    Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;
    Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
    Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
    Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá,
    Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau.
    Lại thêm quân bốn mặt vây thành,
    Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc.
    Sĩ tốt kén người hùng hổ,
    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
    Voi uống nước, nước sông phải cạn.
    Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
    Đánh hai trận, tan tác chim muông.
    Nổi gió to trút sạch lá khô,
    Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.
    Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
    Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
    Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
    Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
    Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
    Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
    Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật;
    Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
    Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;
    Thành Đan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
    Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp;
    Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.
    Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng;
    Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
    Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc
Xem thêm  Trứng Vịt Lộn Um Bầu: Món Ăn Đặc Trưng Và Bổ Dưỡng Ở Huế

Mục nhập này đã được đăng trong Blog. Đánh dấu trang permalink.